Bảo vệ môi trường từ việc xây dựng và khai thác cảng biển

 

Hiện nay, môi trường biển nước ta đang có dấu hiệu bị ô nhiễm và suy thoái. Môi trường vùng nước ven bờ đã bị ô nhiễm dầu, kẽm và chất thải sinh hoạt. Thực tế đó đang đòi hỏi một quyết sách bảo vệ môi trường từ việc xây dựng và khai thác cảng biển.

Môi trường vùng nước ven bờ đã bị ô nhiễm dầu, kẽm và chất thải sinh hoạt, còn chất rắn lơ lửng như Si, NO3, NH4 và PO4 cũng ở mức đáng lo ngại. Chất lượng trầm tích đáy biển ven bờ - nơi cư trú của nhiều loài thủy hải sản - cũng bị ô nhiễm. Hàm lượng hóa chất bảo vệ thực vật chủng an-đrin và en-đrin trong các mẫu sinh vật đáy ở các vùng cửa sông ven biển phía Bắc đều cao hơn giới hạn cho phép.

Định dạng sinh học động vật đáy ở ven biển miền Bắc và thực vật nổi ở miền Trung suy giảm rõ rệt. Lượng hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu trong cơ thể các loài thân mềm hai mảnh vỏ được xác định cao nhất tại Sầm Sơn và cửa Ba Lạt (11,14 - 11,83mg/kg thịt ngao), thấp nhất tại Trà Cổ (1,54mg/kg).

Các chất an-đrin, en-đrin, đi-e-đrin, đặc biệt là an-đrin và en-đrin có ở hầu hết các mẫu phân tích, biến đổi từ 0,12 đến 3,11mg/kg. Hiện tượng thủy triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta từ tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch tại vùng biển Nam Trung bộ, đặc biệt là tại Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Hơn 30km bãi biển từ Cà Ná đến Long Hương nhầy nhụa những bột báng màu xám đen dày cả tấc, trộn với xác chết của sinh vật tạo nên mùi hôi thối, gây thiệt hại rất lớn.

Vùng biển ven bờ nước ta đã phát hiện được khoảng 8 - 16 loài vi tảo biển gây hại tiềm năng với mật độ hơn 2 x 104 tế bào/lít. Hiện tượng thủy triều đỏ cũng xảy ra ở vùng biển Bình Thuận đã tiêu diệt tôm, cua, cá, san hô, rong cỏ biển.

Nước từ những con suối, lạch sông đổ ra sông lớn rồi đổ ra biển. Nước ta đã có gần chục con sông “chết”, điển hình như sông Thị Vải, sông Đồng Nai, sông Đáy, sông Cầu, sông Nhuệ... Các nguồn ô nhiễm từ lục địa theo sông mang ra biển như dầu thải, nước thải chưa xử lý... Có những loại không phân hủy được đọng lại ở ven bờ, chìm xuống đáy biển, những chất phân hủy thì hòa tan trong toàn khối nước biển.

Những công trình trên biển ngày càng mọc thêm nhiều. Hầu hết các công trình cảng và hoạt động của cảng đều tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, như mất các nơi sinh cư do lấy đất xây dựng, ô nhiễm nước, đất, không khí, tiếng ồn... trong khu vực cảng và phụ cận.

Các công trình sản xuất, nhà máy đóng tàu biển, các công trình đảm bảo du lịch và rất nhiều các hoạt động khác đều tác động xấu đến môi trường tự nhiên của biển. Vận tải biển là một lợi thế lớn về kinh tế, đang phát triển đáng kể nhờ vào ưu thế vượt trội của nó so với các loại hình vận tải khác nhưng cũng tác động xấu đến môi trường.

Từ việc xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông, nạo vét luồng lạch dẫn đến phá hoại sinh thái vùng cửa sông, ven biển ngập mặn, vùng đất chua phèn, tạo nên một sự đảo lộn, cùng với việc đổ phế thải dầu, mỡ. Thêm vào đó, hệ thống đường thủy phát triển, phương tiện vận tải ngày càng nhiều, lượng dầu mỡ gây ô nhiễm tới 50% nguồn gây ô nhiễm.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên do thiếu kinh phí để xử lý môi trường và buông lỏng quản lý. Tại các thành phố lớn, ngay cả các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, hầu như toàn bộ nước thải sinh hoạt được xả trực tiếp ra sông mà không qua xử lý. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng sử dụng một lượng rất lớn phân bón hóa học và thuốc trừ sâu. Lượng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu không được hấp thụ hết cũng đổ ra sông… Tại một số địa phương, thậm chí rác thải sinh hoạt cũng không được thu gom và xử lý triệt để, do vậy, một lượng lớn rác thải sinh hoạt bị đổ ra biển.

Ngoài ra, công tác quản lý nhà nước về môi trường vẫn còn nhiều thiếu sót, yếu kém. Ví dụ như ở Vũng Tàu, theo quy định của Luật Bảo vệ Môi trường thì các dự án đầu tư cơ sở lưu trú và khu du lịch phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt hoặc có bản cam kết bảo vệ môi trường trước khi khởi công. Thế nhưng, trên thực tế, chỉ các dự án xây dựng sau khi Luật Bảo vệ môi trường (có hiệu lực từ 1/7/2006) và các khách sạn, khu du lịch do cấp tỉnh quản lý nhà nước về môi trường (từ 100 phòng trở lên hoặc từ 10ha trở lên) là thực hiện tốt các thủ tục hành chính về môi trường. Phần lớn các dự án do cấp huyện quản lý chưa trình bản cam kết bảo vệ môi trường để được phê duyệt trước khi khởi công. Ngay cả trong số các đơn vị kinh doanh du lịch do cấp tỉnh quản lý (Sở TN&MT) cũng có đơn vị chưa đầu tư hoàn chỉnh hệ thống xử lý nước thải.

Riêng các cơ sở lưu trú do cấp huyện quản lý hầu hết đều chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải mà chủ yếu là xử lý bằng bể tự hoại 3 ngăn trước khi thải ra môi trường hoặc kết nối vào hệ thống thoát nước đô thị. Qua kiểm tra, Sở TN&MT còn phát hiện một số khu du lịch tự xử lý rác thải trong khuôn viên khu du lịch.

Một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nữa là vấn đề tràn dầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn trong những năm gần đây đã làm gia tăng rất mạnh lượng tiêu thụ xăng dầu. Sản lượng khai thác dầu thô toàn thế giới khoảng 3 tỷ tấn/năm và nửa số đó được vận chuyển bằng đường biển (Pavlo, 2003). Hậu quả là một lượng dầu rất lớn bị rò rỉ ra môi trường biển do hoạt động của các tàu và do các sự cố hư hỏng hay đắm tàu chở dầu, do sự cố tại lỗ khoan thăm dò và dàn khoan khai thác dầu. Lịch sử thế giới đã ghi nhận hàng trăm vụ ô nhiễm dầu trên biển.

Các cảng biển cũng gây ô nhiễm môi trường. Cảng biển đang đem lại nguồn lợi lớn cho kinh tế nước ta. Hàng năm, tàu thuyền đến các bến cảng Việt Nam tăng cả về số lượng và kích cỡ, theo đó hàng hóa thông qua hệ thống cảng gia tăng đáng kể. Sự tăng trưởng trên ẩn chứa nguy cơ ô nhiễm môi trường từ các bến cảng. Chính ô nhiễm môi trường đã tác động xấu cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội.

 Về môi trường nước, các cảng đều phải đối mặt với nước đục do liên quan đến hoạt động của tàu thuyền ra vào cảng, nạo vét luồng lạch, đổ phế thải. Độ đục nước vùng cảng Hải Phòng là 418-424mg/l; cảng Đà Nẵng 33-167mg/l. Nồng độ dầu ở tất cả các cảng đều vượt mức cho phép 0,3mg/l (TCVN5943-1995), cảng Hải Phòng 0,42mg/l; cảng Cái Lân 0,6mg/l; cảng Vũng Tàu 0,52mg/l; cảng Vietso Petro 7,57mg/l.

Mặt dầu loang ngăn chặn không khí hòa tan vào nước nên hàm lượng ô-xy trong nước thấp, trung bình 3,3-10,9mg/l vào mùa khô và 0,16 - 6,1mg/l vào mùa lũ, trong khi đó nhu cầu ô xy rất cao, cần tới 13,6 - 31mg/l. 

Nước thải sinh hoạt và công nghiệp đổ xuống biển chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng học luôn ở mức cao. Ở một số cảng đáng báo động là hàm lượng thủy ngân đã vượt ngưỡng cho phép (cảng Vũng Tàu vượt 3,1 lần, cảng Nha Trang vượt 1,1 lần).

Từ những phân tích trên cho thấy, môi trường khu vực cảng biển Việt Nam đang suy thoái, ô nhiễm bởi bụi, tiếng ồn, dầu, chất hữu cơ... kể cả trong nước, không khí, đất. Thực tế đó đang đòi hỏi một quyết sách bảo vệ môi trường từ việc xây dựng và khai thác cảng biển.

(Tapchigiaothong)

Viết bình luận

Bạn đã gửi bình luận thành công. Chúng tôi sẽ đăng bình luận của bạn sau khi kiểm duyệt.